Dân tộc dao là gì? Các bài nghiên cứu khoa học liên quan

Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc Việt Nam, có nguồn gốc từ Trung Quốc, sử dụng ngôn ngữ H'Mông-Dao và sống chủ yếu ở vùng núi phía Bắc. Họ có đời sống văn hóa đặc sắc với lễ cấp sắc, chữ Nôm Dao, trang phục truyền thống và tri thức y học dân gian quý giá.

Giới thiệu về dân tộc Dao

Dân tộc Dao là một trong những dân tộc thiểu số lâu đời sinh sống tại Việt Nam, được Nhà nước công nhận là một trong 54 thành phần dân tộc. Theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 do Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố, người Dao có khoảng 891.151 người, chiếm khoảng 0,93% dân số cả nước. Họ là dân tộc có dân số lớn thứ 9 trong số các dân tộc thiểu số tại Việt Nam.

Người Dao thuộc nhóm ngôn ngữ H'Mông-Dao trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền. Họ có mối quan hệ ngôn ngữ và lịch sử gần gũi với người H'Mông, đặc biệt trong các hoạt động xã hội truyền thống, tập quán cư trú và mô hình tổ chức cộng đồng. Dân tộc Dao có nguồn gốc từ phía Nam Trung Quốc và đã di cư xuống các vùng núi phía Bắc Việt Nam từ hàng trăm năm trước.

Người Dao thường được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau tùy theo vùng miền và nhóm địa phương như Mán, Trại, Kim Miền, hoặc Pa Dí (một nhóm Dao đặc biệt tại Lào Cai). Họ tự gọi mình là “Dìu Miền” hoặc “Dao”. Dù có sự khác biệt giữa các nhóm địa phương, họ vẫn giữ được nhiều nét chung về phong tục, tín ngưỡng và cấu trúc xã hội truyền thống.

Phân bố dân cư

Người Dao cư trú chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đặc biệt là Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Thái Nguyên. Ngoài ra, họ còn phân bố ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên như Quảng Bình, Kon Tum, Lâm Đồng và Đắk Lắk theo các chương trình di dân kinh tế mới và định canh định cư từ cuối thế kỷ XX.

Hình thức cư trú của người Dao chủ yếu là làng bản nhỏ, nằm ở các khu vực sườn núi, đồi cao, nơi có đất sản xuất nương rẫy. Người Dao thường chọn những vị trí gần nguồn nước, thuận tiện cho sinh hoạt và canh tác. Kiểu nhà phổ biến là nhà sàn hoặc nhà đất, mái lợp lá cọ, cỏ gianh hoặc ngói.

Các cộng đồng người Dao thường có mối liên hệ dòng họ chặt chẽ, sống tập trung và ít di chuyển khi đã định cư ổn định. Cơ cấu cư trú cũng phản ánh sự gắn kết văn hóa cộng đồng cao, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo tồn tiếng nói, trang phục và lễ nghi truyền thống.

Phân nhóm và tên gọi

Dân tộc Dao được chia thành nhiều nhóm địa phương khác nhau, mỗi nhóm mang những nét đặc trưng riêng biệt về ngôn ngữ, trang phục, phong tục và tín ngưỡng. Một số nhóm lớn bao gồm Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Áo Dài, Dao Thanh Y, Dao Quần Chẹt. Mỗi nhóm có hệ thống biểu tượng văn hóa riêng, nhưng vẫn giữ được tính thống nhất trong cộng đồng.

Tên gọi các nhóm Dao chủ yếu dựa vào đặc điểm trang phục truyền thống như màu sắc chính, kiểu dáng quần áo, hoặc phong tục độc đáo trong đời sống hằng ngày. Ví dụ: Dao Đỏ nổi bật với khăn và áo thêu đỏ rực rỡ; Dao Tiền thường đeo các vòng bạc to bản; Dao Áo Dài mặc áo dài đến gối; Dao Quần Trắng mặc quần trắng ống rộng thêu hoa văn tinh xảo.

Dưới đây là bảng mô tả các phân nhóm tiêu biểu:

Phân nhóm Đặc điểm nhận dạng Khu vực cư trú
Dao Đỏ Trang phục đỏ, khăn đội đầu lớn Lào Cai, Hà Giang
Dao Tiền Đeo nhiều trang sức bạc, quần xẻ Tuyên Quang, Cao Bằng
Dao Quần Chẹt Quần chẹt bó sát, áo ngắn Yên Bái, Bắc Kạn
Dao Áo Dài Áo dài đen thêu hoa văn Lạng Sơn, Thái Nguyên

Ngôn ngữ và chữ viết

Ngôn ngữ của người Dao thuộc nhóm ngôn ngữ H'Mông-Dao trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền, sử dụng nhiều phương ngữ khác nhau tùy theo phân nhóm và địa phương. Một số phương ngữ có thể giao tiếp được với nhau, trong khi một số khác có sự khác biệt đáng kể về âm vị và từ vựng, khiến khả năng thông hiểu bị hạn chế.

Người Dao có hệ thống chữ viết cổ riêng gọi là chữ Nôm Dao, được sáng tạo dựa trên nền tảng chữ Hán nhưng phát triển độc lập để phù hợp với ngôn ngữ và tín ngưỡng bản địa. Chữ này chủ yếu dùng trong các bản văn cúng, truyện thơ tôn giáo, ghi chép y học dân gian và luật tục.

Hiện nay, chữ Nôm Dao được bảo tồn trong các cộng đồng thầy cúng và truyền lại qua con đường truyền khẩu hoặc truyền nghề. Một số tổ chức học thuật như Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tiến hành sưu tầm, số hóa và nghiên cứu về hệ thống chữ viết này, góp phần quan trọng trong bảo tồn tri thức văn hóa của người Dao.

Tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống

Tín ngưỡng của người Dao mang tính tổng hợp giữa yếu tố Đạo giáo, thờ cúng tổ tiên, thờ thần tự nhiên và tín ngưỡng bản địa. Hệ thống thần linh trong tín ngưỡng Dao gồm nhiều tầng lớp: thần bản mệnh, thần núi rừng, thần đất, tổ tiên, và các vị thánh trong Đạo giáo. Đây là nền tảng tinh thần quan trọng trong đời sống cộng đồng, gắn liền với chu kỳ sản xuất và các giai đoạn trong đời người.

Lễ cấp sắc (lễ "quá tăng") là nghi lễ tôn giáo lớn và quan trọng nhất của người Dao. Mỗi người đàn ông Dao trưởng thành đều bắt buộc phải thực hiện nghi lễ này ít nhất một lần trong đời để được công nhận là người trưởng thành về mặt tâm linh và được phép tham gia các nghi lễ cộng đồng. Lễ thường kéo dài từ 3 đến 7 ngày, với nhiều nghi thức phức tạp như mời tổ tiên, ban sắc phong, cúng thần linh.

Người thực hiện các nghi lễ tôn giáo là thầy cúng, người được truyền dạy hệ thống kiến thức tôn giáo, chữ viết Nôm Dao và các bài kinh cổ. Những bản kinh này thường được chép tay trong sách vải hoặc giấy dó, giữ gìn như bảo vật gia truyền và có giá trị lớn về mặt văn hóa, ngôn ngữ. Thầy cúng không chỉ làm lễ cho cá nhân mà còn cho cả cộng đồng trong các dịp lễ lớn như lễ cầu mùa, lễ dựng nhà, lễ cúng rừng.

Trang phục và văn hóa vật thể

Trang phục truyền thống là một trong những đặc điểm văn hóa nổi bật nhất của người Dao, phản ánh sự đa dạng giữa các nhóm địa phương. Trang phục thường được làm từ vải lanh thủ công, nhuộm chàm hoặc đen, thêu tay bằng chỉ màu với họa tiết hình học, động vật hoặc biểu tượng tín ngưỡng. Phụ nữ Dao thường đội khăn, mặc áo dài hoặc áo ngắn tùy nhóm, và đeo trang sức bạc.

Mỗi nhóm Dao có phong cách trang phục đặc trưng:

  • Dao Đỏ: áo thêu hoa văn đỏ rực, khăn đội đầu lớn, đeo nhiều vòng cổ bạc.
  • Dao Tiền: mặc áo chàm, thắt lưng to bản bằng bạc, mang túi vải thêu tay.
  • Dao Áo Dài: áo dài màu đen hoặc chàm, họa tiết chạy dọc thân áo.
  • Dao Thanh Y: trang phục đơn giản, màu tối, ít họa tiết, dùng khăn trùm đầu.

Trang phục không chỉ mang tính thẩm mỹ mà còn thể hiện vai trò xã hội, tuổi tác, tình trạng hôn nhân và địa vị tín ngưỡng của người mặc. Nhiều hoa văn được cho là có ý nghĩa trấn tà, cầu may, hoặc thể hiện mối liên kết với tổ tiên và thần linh.

Canh tác và sinh kế

Người Dao truyền thống sống dựa vào nương rẫy, trồng lúa cạn, ngô, sắn, cây ăn quả và cây thuốc. Ngoài ra, họ còn chăn nuôi gia súc như lợn, gà, trâu bò để phục vụ sinh hoạt và nghi lễ. Mô hình kinh tế tự cung tự cấp vẫn còn phổ biến, tuy nhiên những năm gần đây, một số hộ gia đình đã chuyển sang canh tác hàng hóa và phát triển du lịch cộng đồng.

Người Dao còn nổi tiếng với nghề thủ công như thêu thùa, dệt vải lanh, làm giấy bản, rèn công cụ nông nghiệp và chế biến dược liệu. Đặc biệt, kỹ năng bốc thuốc và sử dụng thảo dược được coi là một tài sản văn hóa quý giá, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua hình thức thực hành trực tiếp.

Việc khai thác tri thức y học cổ truyền đã giúp người Dao cải thiện thu nhập, đồng thời góp phần bảo tồn nguồn gen thực vật quý hiếm. Một số mô hình tổ hợp tác y học dân tộc Dao đã được xây dựng tại Lào Cai, Tuyên Quang, với sự hỗ trợ từ các chương trình phát triển của Save the ChildrenỦy ban Dân tộc.

Tri thức bản địa và y học dân gian

Tri thức bản địa của người Dao là hệ thống kiến thức phong phú liên quan đến môi trường, thảo dược, thực phẩm và phòng chống bệnh tật. Trong lĩnh vực y học, người Dao sở hữu nhiều bài thuốc nam nổi tiếng chữa cảm mạo, hậu sản, viêm da, xương khớp và các bệnh nội tạng. Những bài thuốc này thường có nguồn gốc từ cây rừng và được sử dụng theo phương pháp dân gian đã được thực hành hàng trăm năm.

Lễ tắm lá thuốc của người Dao Đỏ ở Sa Pa là một ví dụ điển hình. Bài thuốc bao gồm từ 10 đến 120 loại lá rừng, được nấu thành nước tắm để chữa các chứng đau nhức, cảm lạnh, mệt mỏi. Liệu pháp này đã được nghiên cứu, chuẩn hóa và đưa vào mô hình du lịch sức khỏe, trở thành sản phẩm văn hóa mang tính thương hiệu tại các khu du lịch vùng cao.

Các tổ chức nghiên cứu và phát triển bền vững đang phối hợp với người Dao nhằm xây dựng ngân hàng dữ liệu thảo dược và hệ thống bảo tồn tri thức truyền thống. Việc kết nối tri thức bản địa với nghiên cứu khoa học hiện đại đang mở ra cơ hội lớn cho cộng đồng Dao trong việc gìn giữ văn hóa và phát triển sinh kế bền vững.

Giáo dục, hội nhập và thách thức

Trong những thập niên gần đây, đời sống người Dao đã có nhiều thay đổi tích cực nhờ chính sách dân tộc của nhà nước, như chương trình 135, 1719 và các dự án xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, khoảng cách về giáo dục, y tế và hạ tầng giữa các vùng dân tộc Dao với khu vực phát triển vẫn còn rõ rệt. Tỷ lệ mù chữ ở người lớn và trẻ em bỏ học sớm vẫn cao ở một số vùng sâu.

Thách thức lớn nhất hiện nay là sự mai một văn hóa truyền thống. Trong khi nhiều người trẻ rời bản lên thành thị làm việc, ngôn ngữ Dao không còn được sử dụng thường xuyên trong giao tiếp hằng ngày. Nhiều nghi lễ cổ, nghệ thuật trình diễn và nghề thủ công đang dần bị lãng quên do thiếu người kế thừa.

Giải pháp cần thiết là tích hợp giáo dục song ngữ trong trường học, tổ chức các lớp học chữ Dao, phục dựng lễ hội truyền thống và tạo điều kiện để người Dao trẻ tham gia vào hoạt động bảo tồn văn hóa. Ngoài ra, việc phát triển du lịch cộng đồng cũng là hướng đi tiềm năng giúp gắn kết kinh tế với gìn giữ di sản văn hóa.

Tài liệu tham khảo

  1. Tổng cục Thống kê Việt Nam - Dân số theo dân tộc
  2. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam - Nghiên cứu Dân tộc học
  3. Chương trình phát triển dân tộc thiểu số
  4. Liên Hợp Quốc tại Việt Nam - Báo cáo về đồng bào dân tộc thiểu số
  5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Di sản văn hóa người Dao
  6. Save the Children Vietnam - Dự án bảo tồn tri thức bản địa
  7. Ủy ban Dân tộc - Chính sách dân tộc và chương trình 135

Các bài báo, nghiên cứu, công bố khoa học về chủ đề dân tộc dao:

Can thiệp cải thiện chăm sóc liên quan đến ung thư đại trực tràng ở các nhóm dân tộc thiểu số: Một tổng quan hệ thống Dịch bởi AI
Journal of General Internal Medicine - - 2012
TÓM TẮT Mục tiêu Tổng quan một cách có hệ thống tài liệu đã công bố để xác định các can thiệp nhằm cải thiện sức khỏe của các nhóm dân tộc thiểu số liên quan đến chăm sóc ung thư đại trực tràng. Nguồn dữ liệu...... hiện toàn bộ
#Ung thư đại trực tràng #Can thiệp sức khỏe #Nhóm dân tộc thiểu số #Tầm soát ung thư #Dịch vụ dẫn dắt #Giáo dục bệnh nhân #Đào tạo bác sĩ
Tri thức bản địa của dân tộc Dao khu vực miền núi phía Bắc trong việc lựa chọn đất đai, địa hình canh tác và hệ thống cây trồng
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh - Tập 0 Số 44 - Trang 175 - 2019
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 Trong quá trình lao động, dân tộc Dao ở khu vực miền núi phía Bắc đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm và đạt những thành quả ở nhiều lĩnh vực. Đặc điểm nổi bật trong thế ứng xử văn hóa với môi trường tự nhiên của người Dao l&ag...... hiện toàn bộ
#tri thức bản địa #canh tác #hệ thống cây trồng #dân tộc Dao
Ảnh hưởng của vận tốc đá dẫn và góc cao tâm của chi tiết đến độ nhám và độ không tròn của chi tiết khi mài vô tâm chạy dao hướng kính
Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng - - Trang 1-4 - 2015
Bài báo trình bày nghiên cứu ảnh hưởng của vận tốc đá dẫn và góc cao tâm của chi tiết đến chất lượng vật mài khi gia công tinh thép 20Cr thấm cacbon khi mài vô tâm chạy dao hướng kính. Hai thông số đặc trưng cho chất lượng vật mài được khảo sát trong nghiên cứu này gồm độ nhám bề mặt (Ra) và độ không tròn (∆). Từ đó đưa ra được mức độ ảnh hưởng của vận tốc đá dẫn và góc cao tâm của chi tiết đến độ...... hiện toàn bộ
#mài vô tâm chạy dao hướng kính #độ nhám #độ không tròn #thép 20X #vận tốc đá dẫn #góc cao tâm của chi tiết
ĐỘC ĐÁO TRÊN TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC LỰ Ở LAI CHÂU
Tạp chí khoa học Trường Đại học Mở Hà Nội - - 2021
Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc cùng chung sống. Trang phục truyền thống các dân tộc ở Việt Nam đa dạng và phong phú cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Người Lự ở Sìn Hồ, Lai Châu là một trong số ít dân tộc vẫn còn bảo tồn và duy trì gần như nguyên bản trang phục truyền thống. Nét độc đáo của trang phục truyền thống không chỉ thể hiện ở chất liệu hay kĩ thuật thể hiện mà hình dáng tran...... hiện toàn bộ
#Trang phục dân tộc Lự #Dân tộc Lự #bố cục trang phục #trang phục truyền thống
NGHIÊN CỨU TẬP QUÁN KHAI THÁC, SỬ DỤNG CÂY THUỐC CỦA NGƯỜI DAO TẠI HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU
TNU Journal of Science and Technology - Tập 229 Số 05 - Trang 413-418 - 2024
Nghiên cứu đã đánh giá tập quán sử dụng, khai thác cây thuốc của người Dao tại huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Các số liệu được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trên 100 người dân tộc Dao có kinh nghiệm sử dụng thuốc y học cổ truyền, kết hợp với quan sát, thảo luận để phát hiện các bài thuốc, cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm. Kinh nghiệm sử dụng thuốc của các đối tượng nghiên cứu có ...... hiện toàn bộ
#Dao #Sin Ho #Traditional Medicine #Osteoarthritis #Medicinal Plants
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM VI HỌC, THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA DƯỢC LIỆU MỘC THÔNG NAM (IODES SP., HỌ ICACINACEAE) THU TẠI HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU
TNU Journal of Science and Technology - Tập 229 Số 13 - Trang 310-315 - 2024
Mộc thông nam hay Poàng đìa nhao ( Iodes sp ., họ Icacinaceae) đã được người dân tộc Dao ở huyện Sìn Hồ , tỉnh Lai Châu sử dụng làm thuốc chữa các bệnh về xương khớp, thuốc tắm cho phụ nữ sau sinh… Tuy nhiên tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về loài này. Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả đặc điểm vi học, định tính sơ bộ thành phần hóa học của dược liệu Mộc thông nam ( Iodes sp ., họ ...... hiện toàn bộ
#Mộc thông nam #Poàng đìa Nhao #Đặc điểm vi học #Thành phần hóa học #Dân tộc Dao
Tư tưởng Nho giáo và đạo lý dân tộc qua đề tài “Triết lý nhân sinh, răn dạy đạo lý” trong thơ Nôm Đường luật thế kỉ XV
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh - Tập 0 Số 26 - Trang 11 - 2019
800x600 Đề tài chủ đề triết lý nhân sinh, răn dạy đạo lý chiếm vị trí nổi bật trong thơ Nôm Đường luật thế kỷ XV, đặc biệt là ở Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Hội tụ ở đề tài này là những yếu tố tích cực thuộc phạm trù mỹ đức của hệ tư tưởng Nho giáo, của đạo lý truyền thốn...... hiện toàn bộ
Thực trạng năng lực biên đạo chất liệu múa dân gian dân tộc Việt của sinh viên ngành Giáo dục Mầm non trường Đại học Tây Nguyên
Tạp chí Khoa học Đại học Tây Nguyên - Tập 16 Số 57 - 2022
Bài viết đề cập đến thực trạng năng lực biên đạo chất liệu múa dân tộc Việt (NLBĐCLM) của sinh viên (SV) ngành Giáo dục mầm non Trường Đại học Tây Nguyên. NLBDCLM được điều tra trên biểu hiện mặt nhận thức và mặt hành động. Kết quả khảo sát cho thấy, nhận thức và hành động của SV về BĐCLM lần lượt ở mức rất thấp và mức thấp. Có sự tương quan giữa mặt nhận thức và hành động ở mức trung bình. Các yế...... hiện toàn bộ
#năng lực biên đạo múa dân tộc Việt #sinh viên ngành giáo dục mầm non #Đại học Tây Nguyên #Vietnamese traditional choreography #students majoring in preschool education #Tay Nguyen University
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của kích thước gờ giảm tốc đến dao động và tải trọng toàn bộ của xe tải 4 cầu
Tạp chí điện tử Khoa học và Công nghệ Giao thông - - Trang 61-70 - 2024
Bài báo này tập trung nghiên cứu và khảo sát ảnh hưởng của kích thước gờ giảm tốc đến dao động và tải trọng toàn bộ trên các bánh xe tác động lên mặt đường. Mô hình dao động không gian của xe tải 4 cầu được thiết lập theo phương pháp hệ nhiều vật. Hệ thống treo cầu sau có mô tả chuyển động của các thanh treo cân bằng. Mô hình được mô phỏng bằng phần mềm MATLAB-Simulink. Khảo sát ở vận tốc 40km/h v...... hiện toàn bộ
#Mô hình dao động không gian #xe tải 4 cầu #hệ nhiều vật #gờ giảm tốc #mô phỏng.
Tổng số: 46   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5